Năm 2024: Kim ngạch xuất nhập khẩu đạt mức cao kỷ lục
(Theo Trung tâm Thông tin Công nghiệp và Thương mại – Bộ Công Thương, Số 03+04+05 từ ngày 20/01/2025 đến ngày 03/02/2025)
Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam trong năm 2024 đạt kỷ lục 786,3 tỷ USD, tăng 15,4% (105,2 tỷ USD) so với năm 2023. Cán cân thương mại của Việt Nam trong năm 2024 tiếp tục duy trì mức xuất siêu cao ở mức 24,77 tỷ USD. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 25,52 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 50,29 tỷ USD.
Về xuất khẩu, trong bối cảnh kinh tế toàn cầu có nhiều rủi ro, bất ổn, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam năm 2024 vẫn đạt mức tăng trưởng khá cao 14,3% so với năm 2023, đạt 405,53 tỷ USD – mức cao nhất ghi nhận được kể từ trước đến nay. Đồng thời đây cũng là mức tăng trưởng khá cao so với một số nền kinh tế hàng đầu trong khu vực châu Á như: Trung Quốc tăng 7,1%, Hàn Quốc tăng 8,2% năm 2024, Thái Lan tăng 7,3% trong 11 tháng năm 2024… Đây có thể coi là một cột mốc đáng ghi nhận cho những nỗ lực phát triển thương mại quốc tế của Việt Nam. Những kết quả này đã đưa Việt Nam đứng thứ 17 trong 20 nền kinh tế có quy mô thương mại lớn nhất thế giới
Đáng chú ý, trong năm vừa qua kim ngạch xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước tăng tới 19,8% lên mức 114,59 tỷ USD, chiếm 28,3% tổng kim ngạch xuất khẩu; cao hơnso với mức tăng 12,5% của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô), đạt 290,94 tỷ USD, chiếm 71,7% tỷ trọng.
Nhu cầu nhập khẩu hàng hóa từ các đối tác thương mại chính, đặc biệt là Mỹ, EU phục hồi mạnh là một trong những yếu tố quan trọng giúp cho hoạt động xuất nhập khẩu khởi sắc trong năm vừa qua. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu hàng hoá sang Mỹ – thị trường xuất khẩu lớn nhất của nước ta đạt 119,5 tỷ USD trong năm 2024, tăng 23,2% so với năm 2023 và chiếm 29,5% tỷ trọng; trong khi thị trường lớn tiếp theo là Trung Quốc lại giảm nhẹ 0,2%, đạt 61,2 tỷ USD; thị trường đứng thứ ba là EU tăng 18,5%, đạt 51,7 tỷ USD; ASEAN tăng 13,3%, đạt 36,87 tỷ USD; Hàn Quốc tăng 9,1%; Nhật Bản tăng 5,4%…
Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam trong giai đoạn năm 2012 – 2024
(Nguồn: Tổng cục Hải quan)
Kết quả trên có được là nhờ các đơn hàng xuất khẩu trong các nhóm hàng chủ lực như máy tính, điện thoại, máy móc phụ tùng, dệt may, da giày, gỗ và sản phẩm gỗ tăng trở lại, đồng thời với dòng vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục đổ vào Việt Nam, cũng như sự phục hồi ấn tượng của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo. Đặc biệt, không thể không kể đến xuất khẩu nông sản mất mùa nhưng được giá.
Trong năm 2024 có 37 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 94,3% tổng kim ngạch xuất khẩu (có 8 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 69,0%). Trong đó, kim ngạch xuất khẩu năm 2024 của nhóm hàng điện tử, máy tính và linh kiện đạt 72,6 tỷ USD, tăng 26,6% so với năm 2023, chiếm 17,9% tổng kim ngạch xuất khẩu. Điện thoại và linh kiện đứng vị trí thứ 2 với kim ngạch đạt 53,9 tỷ USD, tăng 2,9%; máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác đạt 52,3 tỷ USD, tăng 21%; hàng dệt may đạt 37 tỷ USD, tăng 11,2%; giày dép đạt 22,9 tỷ USD, tăng 13%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 16,3 tỷ USD, tăng 20,9%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 15,1 tỷ USD, tăng 6,4%; thủy sản đạt 10 tỷ USD, tăng 11,9%. Nhìn chung tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của nhiều mặt hàng đều ở mức hai con số trong năm 2024 vừa qua.
Ở nhóm hàng nông sản, nhiều kỷ lục xuất khẩu mới đã được thiết lập trong năm 2024. Nổi bật trong số đó là ngành hàng rau quả tăng 27,6% lên 7,15 tỷ USD, cao nhất trong lịch sử ngành hàng. Tương tự, kim ngạch xuất khẩu gạo đạt kỷ lục 5,67 tỷ USD, tăng 21,2%; cà phê đạt 5,62 tỷ USD, tăng 32,5%; hạt điều cũng đạt tới 4,34 tỷ USD, tăng 19,2%; cao su cũng tăng 18,2% lên mức đỉnh 3,4 tỷ USD. Bên cạnh đó, kim ngạch xuất khẩu hạt tiêu tăng 44,4% và trở lại câu lạc bộ tỷ USD sau nhiều năm, đạt 1,3 tỷ USD. Trong nhóm hàng nông sản, chỉ có duy nhất sắn và các sản phẩm từ sắn có kim ngạch giảm 11,4% trong năm 2024 vừa qua.
Số liệu cũng chỉ ra rằng, có đến 38 trong tổng số 45 mặt hàng xuất khẩu chính ghi nhận tăng trưởng trong năm vừa qua, và chỉ có 7 mặt hàng sụt giảm gồm: xăng dầu, dầu thô, than đá, đá quý, kim loại quý và sản phẩm, sắn và các sản phẩm từ sắn, thức ăn chăn nuôi, Clanhke và xi măng.
Những mặt hàng tăng trưởng cao nhất trong năm 2024 vừa qua có thể kể đến như: Hạt tiêu (tăng 44,4%), thủy tinh và sản phẩm từ thủy tinh (tăng 41,4%), sản phẩm nội thất từ chất liệu khác (tăng 33,5%), cà phê, chất dẻo, rau quả…
Xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam mặc dù phục hồi tăng trưởng nhanh nhưng được đánh giá là chưa bền vững, chịu nhiều tác động bởi các yếu tố bên ngoài. Phần lớn kim ngạch xuất khẩu của nước ta do các doanh nghiệp FDI mang lại (khoảng trên 70%) nhưng xuất khẩu của các doanh nghiệp này phụ thuộc nhiều vào chuỗi cung ứng toàn cầu và chưa tạo được hiệu ứng lan tỏa, thúc đẩy doanh nghiệp trong nước tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Xuất khẩu còn phụ thuộc vào một số thị trường lớn, chủ yếu là với các quốc gia Đông Bắc Á, Mỹ, ASEAN, EU (kim ngạch xuất khẩu tới 4 khu vực thị trường này chiếm gần 80% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước).
Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực sang các thị trường lớn như EU, Mỹ… phải đối mặt với các áp lực về điều tra phòng vệ thương mại, gian lận xuất xứ, các rào cản kỹ thuật liên quan đến môi trường, phát triển bền vững, chuyển đổi xanh.
Giá trị gia tăng trong xuất khẩu chưa được như kỳ vọng, phần lớn hàng xuất khẩu thuộc nhóm hàng gia công, chế biến và tập trung chủ yếu ở nhóm doanh nghiệp FDI (như dệt may, da giầy, điện tử), tỷ lệ nội địa hóa thấp và phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Toàn bộ thặng dư trong cán cân thương mại do các doanh nghiệp FDI mang lại; cán cân thương mại của doanh nghiệp trong nước liên tục thâm hụt với xu hướng tăng.
Hàng nông nghiệp xuất khẩu chủ lực phần nhiều còn dưới dạng nguyên liệu thô, sơ chế, khả năng đáp ứng yêu cầu về chất lượng của thị trường thế giới hạn chế.
Về hàng hóa nhập khẩu:
Năm 2024, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa đạt 380,76 tỷ USD, tăng 16,7% so với năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 140,11 tỷ USD, tăng 19,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 240,65 tỷ USD, tăng 15,1%.
Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam trong giai đoạn năm 2012 – 2024
(Nguồn: Tổng cục Hải quan)
Trong năm 2024 có 46 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 93,1% tổng kim ngạch nhập khẩu (có 6 mặt hàng nhập khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm
54,0%), chủ yếu là các mặt hàng phục vụ nhu cầu nguyên liệu và thiết bị cho sản xuất công nghiệp. Việt Nam vẫn phải nhập khẩu nhiều nguyên liệu sản xuất (như thép, dầu thô, hóa chất) và máy móc, thiết bị công nghiệp phục vụ cho ngành chế tạo, điện tử và ô tô.
Về cơ cấu nhóm hàng nhập khẩu năm 2024, nhóm hàng tư liệu sản xuất đạt 356,43 tỷ USD, chiếm 93,6%, trong đó nhóm hàng máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng chiếm 47,4%; nhóm hàng nguyên, nhiên, vật liệu chiếm 46,2%. Nhóm hàng vật phẩm tiêu dùng đạt 24,33 tỷ USD, chiếm 6,4%. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu đều tăng cao so với năm trước. Mặt hàng nhập khẩu dẫn đầu là điện tử, máy tính và linh kiện đạt 107,1 tỷ USD, chiếm 28,1% tổng kim ngạch nhập khẩu, tăng 21,7% so với năm 2023; máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác đạt 48,9 tỷ USD, tăng 17,6%; vải đạt 14,9 tỷ USD, tăng 14,5%; sắt thép đạt 12,6 tỷ USD, tăng 20,6%; chất dẻo đạt 11,8 tỷ USD, tăng 11,8%; điện thoại và linh kiện đạt 10,4 tỷ USD, tăng 18,9%.
Sự tăng trưởng mạnh mẽ của mặt hàng điện tử, máy tính và linh kiện cho thấy Việt Nam đang chuyển dịch dần từ việc sản xuất các sản phẩm thô sang các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, đặc biệt là trong các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và công nghệ cao. Sự phát triển của ngành sản xuất linh kiện điện tử, robot và phần mềm là minh chứng rõ rệt cho sự chuyển dịch này.
Xuất khẩu năm 2025 khó duy trì đà tăng mạnh như năm 2024
Xuất khẩu hàng hoá tăng trưởng mạnh và là điểm sáng trong bức tranh kinh tế Việt Nam trong năm 2024. Tín hiệu tích cực trong năm 2025 là ngay từ cuối năm ngoái nhiều doanh nghiệp trong các lĩnh vực dệt may, da giày đã có đơn hàng đến hết quý II/2025. Dù vậy, tăng trưởng xuất khẩu bắt đầu giảm tốc vào các tháng cuối năm, đặc biệt trong tháng 12, khi tăng trưởng ở mức thấp nhất kể từ tháng 3. Ngược lại, nhập khẩu mở rộng đà tăng, với mức tăng cao nhất 5 tháng. Nền so sánh cao hơn cùng những ẩn số từ sự thay đổi chính sách thương mại của Mỹ – đối tác xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam đang cho thấy xuất khẩu trong năm 2025 khó duy trì được tăng trưởng cao như năm 2024. Do đó, dự báo xuất khẩu hàng hoá năm 2025 có thể tăng trưởng chậm lại so với năm 2024.
Tuy vẫn còn nhiều yếu tố biến động khó lường ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá, Bộ Công Thương vẫn thể hiện sự quyết tâm, nỗ lực cao, đặt ra mục tiêu thách thức với tăng trưởng xuất khẩu năm 2025 đạt khoảng 12% so với năm 2024.
Để đạt được mục tiêu này, ngành Công Thương rất cần sự triển khai đồng bộ của các Bộ, ngành, địa phương và sự tham gia của cộng động doanh nghiệp xuất nhập khẩu, trong đó chú trọng hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng các cam kết trong các Hiệp định FTA để đẩy mạnh xuất khẩu, thông qua tuyên truyền về quy tắc xuất xứ và cấp Giấy chứng nhận xuất xứ, các cơ hội và cách thức tận dụng cơ hội từ các Hiệp định; Tăng cường các hoạt động cung cấp thông tin thị trường trên nền tảng số cho các địa phương, hiệp hội ngành hàng, doanh nghiệp; Hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua các rào cản thương mại mới tại các thị trường nhập khẩu.
Các yếu tố tích cực hỗ trợ tăng trưởng xuất khẩu trong thời gian tới:
+ Kinh tế toàn cầu duy trì ổn định
Kinh tế thế giới đang dần ổn định khi thương mại hàng hóa toàn cầu được cải thiện trở lại, áp lực lạm phát giảm dần, điều kiện thị trường tài chính tiếp tục được nới lỏng, thị trường lao động phục hồi tích cực.
Theo báo cáo được Liên hợp quốc công bố ngày 9/1, tăng trưởng kinh tế toàn cầu được dự đoán duy trì ở mức 2,8% trong năm 2025, không đổi so với năm 2024. Báo cáo cho thấy mặc dù tiếp tục tăng trưởng, kinh tế toàn cầu được dự báo tăng chậm hơn so với mức trung bình 3,2% trong giai đoạn 2010-2019 (khoảng thời gian trước đại dịch COVID-19).
Trong khi đó, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) dự báo, tăng trưởng GDP toàn cầu năm nay ở mức 3,3%. Còn mức mà Quỹ tiền tệ quốc (IMF) dự báo là 3,2%.
+ Chính phủ và các bộ ngành tiếp tục hỗ trợ mở rộng xuất khẩu
Chính phủ tiếp tục thực hiện các chính sách hỗ trợ xuất khẩu thông qua các chương trình xúc tiến thương mại và hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu như tài trợ chi phí tham gia hội chợ, hỗ trợ tìm kiếm thị trường mới. Ngoài ra, các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong nước về thuế, tín dụng và đào tạo nguồn nhân lực cho lĩnh vực xuất, nhập khẩu cũng đã giúp cải thiện hiệu quả hoạt động của ngành.
Bộ Công Thương đã và đang làm tốt công tác khai mở thị trường, hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng thật hiệu quả những ưu đãi từ các Hiệp định thương mại tự do (FTA). Công tác cảnh báo sớm các biện pháp phòng vệ thương mại ngày càng được thực hiện hiệu quả hơn, giúp hàng Việt Nam tránh được các rủi ro trong quá trình xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài.
+ Không ít doanh nghiệp đã có đơn hàng đến hết quý II/2025
Trong những tuần đầu năm mới, cũng là dịp cận Tết Nguyên đán tại các doanh nghiệp xuất khẩu, tình hình đơn hàng và sản xuất đang cho thấy có nhiều thuận lợi, tạo khí thế và lực đẩy cho hoạt động của năm nay.
Hiệp hội dệt may Việt Nam cho biết, hiện nay các doanh nghiệp trong ngành đã có đơn hàng đến hết quý II năm nay. Với việc Tết Nguyên đán đang đến gần, để kịp tiến độ giao hàng và đảm bảo thời gian nghỉ tết, các doanh nghiệp đã sắp xếp công nhân tăng gia sản xuất. Toàn ngành đặt mục tiêu tăng trưởng trong năm khoảng 47 – 48 tỷ USD. Để tiến tới kết quả này, dệt may Việt Nam trong năm 2025 sẽ phải đảm bảo vững cả 2 yếu tố: chất lượng và giá cả.
Còn theo Hiệp hội Da giày- Túi xách Việt Nam, Việt Nam đứng thứ 3 thế giới về sản xuất giày dép (sau Trung Quốc và Ấn Độ) với 1,3 tỷ đôi/năm, chiếm 5,4% thị phần và đứng thứ 2 về xuất khẩu giày dép (sau Trung Quốc) với 1,276 tỷ đôi/năm, chiếm 7,3% thị phần. Hiện, một số doanh nghiệp lớn đã ký được hợp đồng đến giữa năm 2025.
+ Lợi thế từ các Hiệp định thương mại tự do
Các Hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam ký kết, đặc biệt là Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện khu vực (RCEP), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) và Hiệp định CPTPP tiếp tục phát huy hiệu quả trong việc mở rộng thị trường xuất khẩu và giảm thiểu rào cản thuế quan. Những FTA này không chỉ thúc đẩy xuất khẩu, mà còn tạo cơ hội cho Việt Nam gia tăng nhập khẩu công nghệ và thiết bị sản xuất hiện đại từ các quốc gia đối tác.
Việt Nam đã ký kết hoặc hoàn tất nhiều thỏa thuận thương mại quốc tế trong năm 2024, mở rộng khả năng tiếp cận các thị trường quốc tế. Các thỏa thuận này không chỉ giúp tăng trưởng xuất khẩu mà còn tạo ra những cơ hội đầu tư vào các ngành công nghiệp trong nước.
+ Hạ tầng logistics cải thiện và ứng dụng công nghệ trong xuất, nhập khẩu
Cải thiện hạ tầng logistics và ứng dụng công nghệ trong xuất, nhập khẩu tiếp tục là một yếu tố quan trọng giúp giảm chi phí và nâng cao hiệu quả giao thương. Các công ty xuất, nhập khẩu ở Việt Nam ngày càng áp dụng công nghệ số trong việc quản lý kho, vận chuyển, và làm thủ tục hải quan, từ đó nâng cao hiệu suất và giảm thời gian thông quan, tăng tính hiệu quả của hoạt động xuất, nhập khẩu. Các sáng kiến như hệ thống thông quan tự động, trí tuệ nhân tạo (AI) và dữ liệu lớn (Big Data) đã giúp các doanh nghiệp nhanh chóng tiếp cận thông tin thị trường, quản lý chuỗi cung ứng và tối ưu hóa quá trình xuất, nhập khẩu.
+ Cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa vào thị trường Mỹ
Sau chiến tranh thương mại ở nhiệm kỳ đầu của ông Donald Trump, thị phần của Trung Quốc trong cơ cấu nhập khẩu của Mỹ thu hẹp lại, trong khi một số quốc gia đã gia tăng thị phần. Việt Nam từ đối tác nhập khẩu lớn thứ 12 đã vươn lên vị trí thứ 7 hiện nay. Ngoài ra, Việt Nam cũng không phải quốc gia duy nhất chứng kiến sự gia tăng hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc cùng sự gia tăng hàng hóa xuất khẩu sang Mỹ. Hàn Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, và Mexico là một số các quốc gia đã ghi nhận lượng hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc tăng cao, trong khi lượng hàng xuất khẩu sang Mỹ tăng mạnh. Nhìn về tốc độ tăng trưởng, hàng nhập khẩu từ Trung Quốc vào Việt Nam không gia tăng đột biến so với hàng xuất khẩu sang Mỹ sau năm 2018. Điều này giúp giảm thiểu lo ngại Việt Nam bị cáo buộc là nước chuyển tải hàng từ Trung Quốc vào Mỹ.
Khác với tuyên bố của ông Donald Trump về việc đưa sản xuất quay trở lại Mỹ, sau chiến tranh thương mại 2018, sản xuất vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ trong cơ cấu GDP. Tỷ trọng này vẫn duy trì xu hướng giảm trong 20 năm trở lại đây. Điều này cũng cho thấy tiêu dùng của Mỹ vẫn phụ thuộc vào hàng nhập khẩu.
Nhu cầu nhập khẩu của Mỹ vẫn lớn, giá trị nhập khẩu của Mỹ vẫn duy trì xu hướng tăng, thâm hụt thương mại tiếp tục mở rộng, kể cả sau chiến tranh thương mại. Trong khi đó, cơ cấu nhập khẩu tới năm 2024 không thay đổi so với trước thời điểm chiến tranh thương mại đầu tiên.
Trong kịch bản mức thuế nhập khẩu Mỹ áp lên Việt Nam thấp hơn so với Trung Quốc và không cao hơn so với các quốc gia khác, Việt Nam có triển vọng tiếp tục gia tăng thị phần đối với hàng hóa nhập khẩu của Mỹ.
+ Thu hút vốn FDI dự kiến tiếp tục tăng
Xu hướng dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu đang tạo ra cơ hội lớn cho Việt Nam thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực công nghiệp, đặc biệt là các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và công nghệ cao. Vốn FDI thực hiện cả năm 2024 của Việt Nam đạt 25,35 tỷ USD, tăng 9,35% so với năm 2023, mức cao nhất 10 năm trở lại đây. Về lĩnh vực, nhóm công nghiệp chế biến chế tạo là nhóm thu hút tổng vốn FDI lớn nhất 25,5 tỷ USD trong cả năm, chiếm 66,91% tổng vốn FDI đăng ký và tăng 2%.
Trong bối cảnh khoảng cách địa chính trị vẫn đóng vai trò quan trọng trong sự dịch chuyển của dòng vốn, việc Việt Nam tiếp tục thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với các nước là động lực quan trọng giúp thu hút dòng vốn FDI. Ngoài ra, Việt Nam có lợi thế với 17 hiệp định thương mại tự do, tiếp tục duy trì chính sách mở đối với việc thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất máy móc và cơ sở vật chất liên tục được nâng cấp, chi phí cạnh tranh.
Bên cạnh những thuận lợi, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam cũng đang đối diện với những nhiều khó khăn và thách thức
+ Kinh tế thế giới phục hồi không đồng đều, tăng trưởng đối mặt với nhiều rủi ro và thách thức
Kinh tế thế giới năm 2025 được dự báo đang dần trở lại quỹ đạo tăng trưởng, xu hướng phục hồi rõ nét hơn nhưng không đồng đều giữa các quốc gia. Các tổ chức như OECD, IMF và EU nhận định tốc độ tăng trưởng GDP toàn cầu trong năm 2025 tăng nhẹ hoặc ổn định ở mức 3,2-3,3%. Tuy nhiên, nền kinh tế toàn cầu vẫn phải đối mặt với nhiều rủi ro, thách thức như xung đột và căng thẳng địa chính trị, chuỗi cung ứng toàn cầu còn yếu do bất ổn địa chính trị, thiếu hụt nguồn cung, lạm phát đang hạ nhiệt nhưng vẫn ở mức cao, rủi ro lãi suất tăng và biến động tỷ giá hối đoái. Bên cạnh đó, những chính sách kinh tế mới của chính quyền Tổng thống Mỹ Donald Trump dự kiến sẽ tác động sâu sắc hơn đến tình hình kinh tế thế giới nói chung và nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.
+ PMI có dấu hiệu chậm lại
PMI ngành sản xuất trong tháng 12 ghi nhận ở mức 49, điểm. Hoạt động sản xuất có dấu hiệu sụt giảm nhẹ sau 2 tháng mở rộng, với đơn hàng xuất khẩu đã giảm tháng thứ 2 liên tiếp và các công ty giảm quy mô việc làm và hàng tồn kho. Sản lượng và tổng số lượng đơn đặt hàng mới vẫn tăng nhưng tốc độ đã chậm lại so với trước, ở mức yếu nhất trong vòng 3 tháng. Theo S&P Global, những lo ngại về sự bất ổn và không chắc chắn của thị trường thế giới đã làm giảm niềm tin của các doanh nghiệp về triển vọng sản lượng trong một năm tới. Theo đó, tâm lý kinh doanh trong tháng 12 đã giảm xuống mức thấp nhất kể từ tháng 5/2023.
+ Kinh tế Trung Quốc chậm lại
Kết quả khảo sát mới nhất của Hãng tin Reuters cho thấy, tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc có thể giảm xuống mức 4,5% vào năm 2025 và tiếp tục lùi về 4,2% vào năm 2026. Trong bối cảnh đó, các nhà hoạch định chính sách nước này dự kiến sẽ triển khai thêm các biện pháp kích thích để giảm tác động từ việc Mỹ tăng thuế nhập khẩu.
Theo dự đoán trung bình của 64 nhà kinh tế tham gia khảo sát của Reuters, Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Trung Quốc được dự báo tăng trưởng 4,9% trong năm 2024, gần đạt mục tiêu tăng trưởng hàng năm khoảng 5% của Chính phủ, nhờ các biện pháp kích thích và xuất khẩu mạnh mẽ.
Tuy nhiên, nền kinh tế lớn thứ hai thế giới đang đối mặt với căng thẳng thương mại gia tăng với Mỹ, khi Tổng thống đắc cử Donald Trump, người từng đề xuất tăng mạnh thuế đối với hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc quay lại nắm quyền.
+ Yêu cầu về chất lượng, tính bền vững hàng hóa ngày càng cao
Các sản phẩm nông, thủy sản của Việt Nam gặp khó khăn do biến động giá cả và yêu cầu khắt khe từ các thị trường xuất khẩu. Thị trường EU, Nhật Bản và Mỹ ngày càng có yêu cầu cao về chất lượng, chứng nhận an toàn thực phẩm, trong khi Việt Nam chưa hoàn toàn đáp ứng được các tiêu chuẩn này.
Liên tiếp các lô hàng trái cây tươi của Việt Nam xuất khẩu bị nhiều nước nhập khẩu cảnh cáo vì không tuân thủ yêu cầu về kiểm dịch thực vật và an toàn thực phẩm, ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín và thương hiệu nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Ngày 10/1/2025, Cục Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho biết vừa nhận được cảnh báo của Tổng cục Hải quan Trung Quốc đối với lô hàng trái cây tươi (bao gồm sầu riêng và mít) xuất khẩu từ Việt Nam và nước này không tuân thủ yêu cầu về kiểm dịch thực vật và an toàn thực phẩm.
Trước đó EU thông báo từ ngày 8/1/2025, EU sẽ nâng tần suất kiểm tra mặt hàng sầu riêng Việt Nam từ 10% lên 20% và lý do được EU đưa ra là trong thời gian qua, tỷ lệ cảnh báo về tồn dư thuốc bảo vệ thực vật trong các lô hàng sầu riêng xuất khẩu của Việt Nam sang EU vẫn còn cao.
Đối với xuất khẩu thủy sản, mặc dù là mặt hàng xuất khẩu chủ lực, nhưng ngành thủy sản phải đối mặt với những thách thức như dịch bệnh trong nuôi trồng thủy sản, chi phí sản xuất tăng cao và các rào cản thương mại từ các nước nhập khẩu.
Trong khi đó, sản xuất và xuất khẩu nhóm hàng công nghiệp chế biến cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức lớn bởi xu hướng “xanh hóa” trên thế giới ngày càng đòi hỏi khắt khe đối với doanh nghiệp. Trước đây, yêu cầu về phát triển bền vững chủ yếu là do các nhãn hàng đặt ra nhưng cho đến nay đã được luật hóa tại các thị trường chính của ngành như Mỹ, EU… chính vì thế, việc đáp ứng các tiêu chuẩn xanh hóa sản xuất đòi hỏi bắt buộc hiện nay, tuy nhiên đáp ứng là điều khó khi doanh nghiệp trong nước còn gặp nhiều thách thức.
Thị trường EU cũng bắt đầu đưa ra những yêu cầu về chuyển đổi xanh, đặc biệt là một loạt đạo luật đã được ban hành. Cụ thể như Đạo luật tra soát chuỗi cung ứng hay Đạo luật về chống phá rừng đã được thực hiện và sắp tới, hàng loạt các đạo luật mới như đạo luật về trách nhiệm mở rộng đối với nhà sản xuất, dán nhãn sinh thái, thiết kế sinh thái…
+ Xu hướng bảo hộ gia tăng
Thị trường xuất khẩu hàng hóa lớn nhất của Việt Nam là Mỹ, đang đẩy mạnh chính sách bảo hộ thương mại với mục tiêu giảm thâm hụt thương mại và bảo vệ sản xuất nội địa. Việt Nam, với kim ngạch xuất khẩu lớn vào Mỹ, đứng trước nguy cơ cao bị áp dụng các biện pháp thuế quan hoặc điều tra chống bán phá giá.
SẢN PHẨM MỚI

Bộ sofa nguyên khối liền tấm gỗ hương đỏ
Giá: Giá gốc là: 100.000.000₫.50.000.000₫Giá hiện tại là: 50.000.000₫. -50%
Công trình nhà dân thái nguyên
Giá: Giá gốc là: 867.000.000₫.736.950.000₫Giá hiện tại là: 736.950.000₫. -15%